Cổng game nổ hủ phổ biến nhất - Top 10 bảng xếp hạng game nổ hủ

  • Phone: 0235.3851.429
  • Hotline: 19009095
  • Thông tin:

Thuốc ức chế men chuyển điều trị tăng huyết áp làm tăng nguy cơ ung thư phổi?

  • PDF.

Bs Nguyễn Lương Quang - Khoa Nội TM

Hơn 3 thập niên kể từ khi Captopril là một thuốc ức chế men chuyển đầu tiên được đưa vào điều trị trên lâm sàng, ngày nay các thuốc ức chế men chuyển vẫn được xem là lựa chọn hàng đầu để điều trị các bệnh tim mạch như tăng huyết áp, suy tim... Guideline 2018 của Hội Tim mạch Châu Âu (ESC) điều trị THA vẫn chọn UCMC hoặc ức chế thụ thể angiotenin với mức khuyến cáo IA, đặc biệt cho bệnh nhân THA kèm đái tháo đường, bệnh thận mạn…Tuy nhiên gần đây, có sự hoài nghi liêu UCMC có tăng nguy cơ gây ung thư trong đó có ung thư phổi? Một số bằng chứng sinh học cho thấy mối liên hệ giữa UCMC và nguy cơ ung thư phổi. Việc sử dụng các UCMC gây ra sự tích tụ bradykinin trong phổi, kích thích sự phát triển của ung thư phổi. Sử dụng UCMC cũng dẫn đến tích tụ chất P.45, được biểu hiện trong mô ung thư phổi và có liên quan đến sự tăng sinh khối u và tăng sinh mạch.

Sơ đồ tác dụng hạ huyết áp của thuốc UCMC

ucche1

Bangalore S, Kumar S, et al. trong một RCT (randomized controlled trials) gồm 324.168 bệnh nhân THA sử dụng UCMC, không tìm thấy bằng chứng về sự gia tăng tỷ lệ mắc ung thư, tuy nhiên thử nghiệm này có thời gian theo dõi ngắn chỉ 3,5 năm.

Vừa mới đây, một nhóm tác giả tại Vương quốc Anh, đã công bố một nghiên cứu có thể nói là chấn động, một nghiên cứu thuần tập gồm 992.061 bệnh nhân mới được điều trị bằng thuốc hạ huyết áp từ ngày 1 tháng 1 năm 1995 đến ngày 31 tháng 12 năm 2015.

Sơ đồ thiết kế nghiên cứu

ucche2

Kết quả nghiên cứu cho thấy, thời gian nghiên cứu trung bình là 6,4 năm (SD 4,7), thuốc UCMC thường dùng là ramipril (26%; 257.420 bệnh nhân) lisinopril (12%; 120.641), và perindopril (7%; 70.955), biến cố ung thư phổi xảy ra với tỷ lệ 1,3‰/ năm. Nhìn chung, việc sử dụng UCMC tăng nguy cơ ung thư phổi (1,6-1,2‰/ năm; HR 1,14, CI 95% 1,01 -1,29) khi so với sử dụng thuốc chẹn thụ thể angiotensin. Nguy cơ tăng dần với thời gian sử dụng, rõ ràng sau 5 năm sử dụng (HR 1,22, 1,06 đến 1,40) và đạt đỉnh sau hơn 10 năm sử dụng (HR 1,31, 1,08 đến 1,59). Sự khác biệt có ý nghĩa về cả thời gian tích lũy cũng như thời gian sử dụng thuốc liên tục. Tình trạng hút thuốc không làm thay đổi đáng kể mối liên quan giữa việc sử dụng UCMC và nguy cơ ung thư phổi.

Tỷ số nguy cơ thô và hiệu chỉnh liên quan đến sử dụng UCMC và ung thư phổi

ucche3

Nghiên cứu cũng cho thấy việc sử dụng các UCMC tăng nguy cơ ung thư phổi lên 14%, nguy cơ rõ ràng hơn sau 5 năm sử dụng (22%), tăng lên với thời gian sử dụng dài hơn, đặc biệt là ở những bệnh nhân sử dụng UCMC trong hơn 10 năm (tăng 31% nguy cơ).

Kết quả của nghiên cứu này làm cho chúng ta phải đặt câu hỏi về thuốc UCMC trong điều trị THA, trong khi đây là thuốc được xem như đầu tay của chúng ta, tuy nhiên như chúng ta đã biết đây là phân tích thuần tập hồi cứu, độ mạnh về bằng chứng của nó không được như meta- analysis hay RCT (randomized controlled trials) do đó chúng ta vẫn phải tiếp tục điều trị dùng UCMC cho bệnh nhân, chờ đợi hướng dẫn tiếp theo của các Hội tim mạch, đặc biệt của Hội tim mạch Việt nam. Bên cạnh đó chúng ta cũng chờ xem những thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, những nghiên cứu lớn hơn với thời gian theo dõi dài hơn, cũng như nghiên cứu các chất ức chế angiotensin mới/chất ức chế Neprilysin sacubitril, mới nổi lên gần đây về hiệu quả cải thiện bệnh tim mạch và tử vong nhưng liệu có tránh được nguy cơ ung thư phổi hay không?

Nguồn:  BMJ 24/10/2018;363:k4471

 

Nguồn:  BMJ 24/10/2018;363:k4471

Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Lần cập nhật cuối lúc Thứ bảy, 27 Tháng 10 2018 21:49

You are here Đào tạo Tập san Y học Thuốc ức chế men chuyển điều trị tăng huyết áp làm tăng nguy cơ ung thư phổi?